Trang nhất » Chi hội HC » Tài liệu tra cứu » Trị liệu bằng Đông Y » R

CHI HỘI ĐÔNG Y HC

Tin tổng hợp

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 8


Hôm nayHôm nay : 1071

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 16964

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 4049228

ĐẶC KHU-CƠ TRỊ LIỆU

Thư viện HC

VIÊM TỦY RĂNG

Thứ ba - 26/02/2019 06:49
Ở trong bệnh tủy răng, rất thường thấy dẫn đến bệnh đau đớn thật nghiêm trọng là viêm tủy răng. Bệnh này thường do nhiễm trùng dẫn đến, nhiễm trùng chủ yếu đến từ lỗ sâu của sâu răng. Sau khi tủy răng bị xâm phạm, nhiễm trùng lại có thể đã thông qua lỗ rộng của chân nhọn răng tản đến tổ chức chung quanh chân nhọn răng dẫn đến viêm chung quanh chân nhọn răng.
Viêm tủy răng lấy mức độ đau đớn khác nhau ở răng làm đặc trưng chủ yếu. Khi viêm cấp tính tủy răng, ở vào tình huống không phải chịu đựng kích thích nào có thể đã phát sinh tự phát đau dữ dội. Thời kỳ đầu là đau đớn từng cơn, kéo liền thời gian rất ngắn, có thể ở trong một ngày phát làm 2 đến 3 lần, mỗi lần kéo liền nhiều phút, bị quá nóng, quá lạnh kích thích đau đớn dữ hơn, nói chung ban đêm phát đau dữ dội hơn so với ban ngày. Thời gian cuối đau đớn kéo liền thời gian dài, hoặc tủy răng hóa mủ, lúc này gặp nóng thì đau đớn không chịu nổi mà gặp lạnh kích thích lại có thể làm cho bớt đau đớn, bởi thế người bệnh thường ngậm vật lạnh để giảm nhẹ đau khổ, người bệnh thường không thể biết rõ nơi chốn chỉ ra bệnh. Viêm mạn tính tủy răng nói chung không có tự phát đau đớn dữ dội, có thể có đau âm ỉ rất nhẹ hoặc ban đêm đau căng, khi nhiệt độ khí hậu môi trường biến hóa thì đau đớn nặng hơn.
Y học hiện đại cho rằng nguyên nhân của bệnh này chủ yếu là do nhiễm vi khuẩn. Liên cầu khuẩn, bồ đào khuẩn ở vòm miệng là vi khuẩn và độc tố đó nhiễm qua thân răng, chủ yếu là thông qua lỗ sâu của sâu răng, cũng có thể ở tủy răng ngoại thương hoặc mài mòn nghiêm trọng đến khi bộc lộ ra, hoặc thông qua răng phát triển dị hình, khuyết tổn, hơi nứt dạng bị đập vỡ dẫn đến nhiễm trùng tủy, cũng có thể trải qua nhiễm trùng nha chu, tức là thông qua túi nha chu dẫn đến đi ngược lên viêm tủy răng. Ngoài đó ra với các nhân tố kích thích hóa học, kích thích vật lý, vết đâm, miễn dịch cũng có quan hệ.
Chẩn đóan bệnh này chủ yếu là dựa vào đau răng đặc trưng là tự phát đau, đau phát từng cơn, đau về ban đêm, kích thích của nóng lạnh dẫn đến đau đớn hoặc đau đớn nặng thêm, người bệnh không thể tự mình định được nơi đau. Để tiến tới xác định răng bệnh, đầu tiên kiểm tra cùng phía có răng bị lỗ sâu do sâu ăn hay không, mặt bên cạnh răng sâu dễ bị thưa, có thể kết hợp lúc thường có quá trình thức ăn bị nhét khe  răng hoặc nhờ chụp X quang. Nếu chưa phát hiện lỗ sâu của sâu răng, thì phải suy nghĩ đến các nhân tố khác và răng có hình lạ, túi nha chu sâu hoắm. Cũng có thể nhờ thực nghiệm độ nóng, trắc nghiệm (đo) điện trở, nếu dẫn đến đau đớn dữ dội hoặc không phản ảnh gì đều có ý nghĩa chẩn đóan.
Chữa bệnh này có thể chọn dùng cách mở tủy, thuốc dứt đau là xử lý cấp tốc, có thể dẫn đến tác dụng dứt đau tạm thời. Cần làm cho chữa tủy răng tiến lên một bước, có thể dùng biện pháp bảo tồn tủy được sống, tức là thuật che đậy tủy và thuật cắt đứt tủy còn sống. Nếu không thể bảo tồn tủy được sống cũng phải hết sức bảo tồn răng bệnh làm phép khô tủy chữa bệnh tủy.
Bệnh này này ở trong lâm sàng Đông y thuộc phạm trù "đau răng"( xỉ thống ), " mọt răng "(đố trùng), ( xỉ lãi ). Sách " Hòa tễ chỉ nam " nói : " răng đau đớn, chứng đó không chỉ có một, có đau do nóng sưng phù đầy mồm, bởi trên cách có nhiệt mà đau. Có đau do hư, đều bởi thận kinh hư bại, khí hư nhiệt công lên mà đau. Có phong trùng đau răng, cần dùng xem tỉ mỉ rõ chứng mới có thể uống thuốc "( nha xỉ đông thống, kỳ chứng bất nhất, hữu nhiệt thống giả, mãn khẩu xỉ phù, nhân thượng cách nhiệt nhi thống giả. Hữu hư thống giả, giai nhân thận kinh hư bại, hư nhiệt chi khí thượng công nhi thống. Hữu phong trùng nha thống giả, tu dụng tồn ty tường chứng, phương khả phục dược ).
Sách " Ngọc cơ trưng nghĩa " viết : " Ngoài đầu mặt phạm phong hàn, hoặc miệng hít phải lạnh lẽo đưa đến đau răng, đều là nguyên nhân bên ngoài; thực nhiệt hoặc hỏa của âm hư động lên hấp xương gây ra, khí uất huyết nhiệt sâu mọt, đều là nguyên nhân bên trong, cành vật cứng đánh đâm gây ra, đều là bất nội ngoại nhân vậy, cho nên cách chữa mọi chứng không giống nhau" (đầu diện ngoại mạo phong hàn, hoặc khẩu hấp hàn lãnh, sở chí nha đông giả, giai ngoại nhân giã, thực nhiệt hoặc âm hư hỏa động cốt chưng sở chí, khí uất huyết nhiệt trùng chú, giai nội nhân rã, cạnh vật sở chi đả kích đẳng chí, giai bất nội ngoại sở nhân dã, cố chư chứng bất đồng trị chi ).
Do đó có thể thấy nguyên nhân dẫn đến bệnh này chủ yếu là tà độc của phong, hàn, hỏa khách ở khe răng, tổn thương thân răng và thịt lợi; hoặc vòm mồm không sạch, răng hôi tanh, bã thức ăn nhét ở  răng lâu ngày mà thành; lại bởi hàng ngày ham ăn ngọt bùi béo bổ, thức ăn cay nóng, đến nỗi vị phủ ôn nhiệt, xông lên vùng răng miệng; hoặc khí huyết bất túc, ngoại tà thừa đó, thận tinh hao hư, tủy xương không tươi tốt làm cho răng đau. (Thích Thanh Quyền)

Các bài thuốc
1 - Kim hoàng bạch hộ tủy tễ.
* Công năng và chủ trị : Có công năng thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng sinh cơ. Chủ trị viêm tủy răng cấp, mạn tính.
* Thành phương gồm :
  Kim ngân hoa 30 gr Hoàng kỳ  30 gr
  Bạch cập  30 gr Hoàng liên  15 gr
  Nhũ hương  20 gr Một dược  20 gr
  Liên kiều  20 gr  Địa ca nhân (dibucaine) 5   gr
  Mật ong lượng đủ dùng. 
Trước hết đem 7 vị Đông dược giã ra, qua rây số 7 lấy bột mịn, sau đó dùng dịch Địa ca nhân, mật ong trộn đều, tiêu độc, để sẵn dùng.
* Cách dùng : Lấy thuốc to bằng hạt lúa dán kín đỉnh tủy.
* Hiệu quả lâm sàng : Chữa 42 ca, thành công ( mãi lâu dài sau khi nhét lấp, theo hỏi một năm tự thấy chứng trạng mất đi, thực nghiệm nóng lạnh tủy răng dương tính, khôi phục công năng nhai cắn như thường ) 34 ca, chuyển tốt ( kín tạm sau 1 năm vẫn có tự thấy chứng trạng ở mức độ nhẹ; trải qua thay thuốc 1 lần chứng trạng mất đi, theo hỏi 1 năm thực nghiệm sức sống tủy răng dương tính, công năng như thường ) 4 ca, thất bại ( trải qua sau 2 lần thay thuốc, chứng trạng không giảm, tự phát đau, ban đêm đau thêm dữ dội ) 4 ca.
* Xử phương của : Hồ Bắc tỉnh, Vũ Hán thị Vũ Xương khu, đệ tam Y viện - Hồ Tố Quyên.
* Lời bàn :
Phương này lấy Kim ngân hoa, Liên kiều, Hoàng liên thanh nhiệt, giải độc, tiêu ung, trong hàng ngũ lấy Sinh Hoàng kỳ chỉ là lấy cái hiệu thác độc sinh cơ của nó; Nhũ hương, Một dược, Bạch cập hoạt huyết, chỉ huyết, tiêu thũng, sinh cơ. Phương này đối với viêm tủy răng cấp tính hoặc viêm tủy răng mạn tính phát làm viêm tủy răng cấp tính là thích nghi. Hiện nay trên lâm sàng đối với viêm tủy răng thường chọn lấy lấp đầy tủy khô, do ở tủy chết không có tuần hoàn tính vỡ răng lớn, dễ sinh ra gãy răng, lại bởi sử dụng tễ Thạch tín làm mất sự sống không thể tự hạn mức, nếu người bệnh không theo đúng lúc sẽ nhầm, sẽ dẫn đến viêm chung quanh chân răng. Phương này đã bảo hộ được công năng như thường của tủy răng còn sống, lại tránh được di chứng về sau như đã kể trên, là một loại tễ hộ tủy an toàn, có hiệu ( Thích Thanh Quyền ).
2 - Ba đậu ban miêu tán
* Công năng và chủ trị : Có công năng sát trùng khử rữa, tán nhiệt dứt đau. Chủ trị viêm cấp tính tủy răng.
* Thành phương gồm :
   Ba đậu 1 hạt bỏ vỏ, Ban miêu 1 con bỏ cánh, nghiền nhỏ mịn, thêm Băng phiến 3 gr phối chế thì thành.
* Phương pháp dùng : Dùng quả cầu bông nhỏ tẩm thuốc mịn đặt chỗ lỗ sâu răng, hoặc lấy lụa bọc bột thuốc mịn đặt chỗ răng có bệnh cắn chặt lại, không thể nuốt thuốc vào. Sau khi không đau dùng nước lạnh súc miệng cho sạch thuốc đi .
* Hiệu quả lâm sàng : Chữa 112 ca, tỷ lệ dứt đau đạt 99,1 %, trong đó hiệu quả rõ rệt 104 ca, chiếm 92 %; có hiệu 7 ca , chiếm 6,2 %; vô hiệu 1 ca, chiếm 0,9 %. Thời gian liên tục dứt đau thường khoảng 2 đến 6 giờ đồng hồ, lại hiệu quả nhanh chóng rõ rệt, nói chung từ 5 đến 10 phút.
* Xử phương của Sơn Đông tỉnh, tỉnh lập y viện Mã Chí Siêu.
* Lời bàn :
  Ban miêu trong phương có công năng sát trùng khử rữa; Băng phiến rất cay ưa chạy, có thể tán nhiệt dứt đau; Ba đậu để giải trừ độc tính của Ban miêu, có thể thăng có thể giáng để trừ nhiệt của vị, làm cho có thể dứt đau. Ba đậu và Ban miêu tuy là loại có độc, nhưng theo Ông Mã giới thiệu, sau khi 112 ca bệnh sử dụng, cục bộ và toàn thân đều chưa xuất hiện phản ứng không tốt. Người viết cho rằng là để cho an toàn, lượng dùng nên ít, có thể dùng làm thuốc dùng cục bộ viêm tủy răng cấp tính phải xử lý gấp !
    ( Thích Thanh Quyền )
3 -  Lục vị nha tủy tán.
* Công năng và chủ trị. Có công năng lợi thấp giải độc, hoạt huyết chặn đau, khử rữa sinh cơ. Chủ trị viêm cấp mạn tính tủy răng, tủy răng hoại tử và viêm mãn tính chung quanh chân răng.
* Thành phương gồm :
  Tế tân 15 gr Hùng hoàng 15 gr
  Nhũ hương 15 gr Hồ tiêu 6   gr
  Than Bồ hoàng 12 gr
Nghiền nhỏ mịn, dùng rây 200 mắt rây qua, thêm Băng phiến ) 0,5 gr, lại ước chừng thêm lượng ít natri sunfat ( Na2SO4 ) tiện cho đối chiếu phim chụp X quang răng, cho vào lọ nút kín chờ dùng.
* Cách dùng : Lấy một chút bột mịn thuốc, thêm dầu Đinh hương trộn đảo thành tễ hồ, đặt ở vùng đáy buồng tủy.
* Hiệu quả lâm sàng : Chữa 210 ca ở 244 răng có bệnh, một lần lấp đầy 111 răng, qua 2 lần trở lên xử lý 133 răng. Phần lớn ca bệnh sau khi chữa không có ca nào không phù hợp đặc thù, nhưng có 7 ca cảm thấy đau đớn mức nhẹ, qua sau đối chứng trị liệu thì hết đau. Ở trong 210 ca với 244 răng bệnh, đối với 92 ca bệnh nhân 102 răng, tiến hành phúc tra sau 1 tháng, 3 tháng, nửa năm và 2 năm, lại chụp phim X quang răng đối chiếu, khỏi hẳn ( Tự thấy mất chứng trạng lâm sàng, công năng nhai cắn khôi phục, không có phản ứng chung quanh chân răng, phim X quang răng hiện rõ mất đi âm ảnh chân nhọn vốn có ) 75 chiếc răng chiếm 73,5 % ; tiến bộ ( giảm nhẹ chứng trạng lâm sàng, có thể chịu được công năng nhai cắn, chụp X quang răng hiện rõ co nhỏ âm ảnh chân nhọn vốn có ) 18 chiếc răng, chiếm 17,7 %; thất bại ( chứng trạng lâm sàng nặng thêm, hoặc rơi rụng vật lấp đầy, không thể nhai cắn, chụp X quang răng hiện rõ mở rộng âm ảnh chân nhọn vốn có, hấp thu xương hàm răng ) 9 chiếc răng, chiếm 8,8 %.
* Xử phương của : Khoa vòm miệng, y viện 86 - Phó Gia Vinh.
* Lời bàn :
Dược vật ở phương này không có tính kích thích và tính độc, đặt lâu dài ở buồng tủy và trong ống chân răng chưa phát hiện có phản ứng không tốt với cục bộ và toàn thân. Tế tân và Băng phiến trong phương khí vị rất hay, dễ được người bệnh chấp nhận; than Bồ hoàng có tác dụng cầm máu. Để đi tới tủy răng có sức sống, ở khi bỏ đi buồng tủy, răng bệnh thường thấm ra máu không dứt, một mặt ảnh hưởng thao tác và hiệu quả lấp đầy, mắt khác huyết dịch tiến vào ống nhỏ ở chất nền răng tạo thành biến màu mũ răng, phương này có thể lấy bổ sung chỗ thiếu sót này. ( Thích Thanh Quyền ).
4 - Nha thống phương
* Công năng và chủ trị : Có công năng giải độc dứt đau. Chủ trị viêm tủy răng, răng sâu mà đau răng.
* Thành phương gồm :
1) Lớp thứ hai vỏ rễ Nguyên hoa tươi 60 gr, dùng 250 cm3 cồn 75 % ngâm 3 đến 5 ngày
2) Lớp thứ hai vỏ rễ Nguyên hoa tươi 250 gr dùng 250 cm3 nước sôi ngâm 3 đến 5 ngày.
* Cách dùng : Dùng cầu bông tẩm dịch thuốc đặt ở chỗ răng có bệnh 3 đến 5 phút là được.
* Hiệu quả lâm sàng :  Chữa 130 ca, trong đó nam 53 ca, nữ 77 ca; tuổi từ 1 đến 10 có 3 ca, 11 đến 20 có 7 ca, 21 đến 50 có 58 ca; bệnh trình ngắn nhất là 16 ngày, dài nhất tới trên 20 năm. thuộc mới phát có 37 ca, thuộc phát đi phát lại có 95 ca. Trong 130 ca, ngoài 2 ca vô hiệu, tuyệt đại đa số người bệnh 20 phút là dứt đau. Tễ ngâm rượu hình như  kém hơn so với tễ ngâm nước.
* Xử phương của : Hà Nam tỉnh, Đồng Bá huyện, Thành Giao công xã, Vệ sịnh viện.
* Lời bàn :
Rễ Nguyên hoa là loại vị có độc, lâm sàng dùng ở viêm tuyến vú, ghẻ lở của ngoại khoa, bệnh ngoài da đã có báo cáo rất nhiều, còn như chữa răng đau thì ít thấy. Nắm chắc lượng dùng thích đáng chẳng những chưa xuất hiện phản ứng không tốt, mà lại thu được hiệu quả chữa tốt. ( Thích Thanh Quyền )
5 - Lập chỉ nha thống đan
* Công năng và chủ trị : Có công năng khử phong tán hỏa, giải độc dứt đau. Chủ trị cấp, mạn tính viêm tủy răng.
* Thành phương gồm :
  Phòng phong 3 gr Khương hoạt 3 gr
  Tế tân 3 gr Tất bạt 3 gr
  Hùng hoàng  3 gr Băng phiến 6 gr
Bốn vị thuốc trên nghiền mịn, thêm Hùng hoàng, Băng phiến đảo đều, lấy một cái chén sứ dùng giấy bông bịt kín miệng, đặt thuốc ở trên giấy bịt miệng chén. Lấy lửa đốt thành than nhỏ cạo bỏ bột thuốc đó đi, đợi nguội rồi lột bỏ giấy bông đi, trong chén sẽ có một lớp thuốc đan, dùng dao bằng đồng cạo lấy, cho vào trong lọ sứ bịt kín chờ dùng .
* Cách dùng : Trước hết lệnh cho người bệnh dùng nước muối súc miệng, lại lấy bông y tế chà cho khô sạch, nếu có lỗ sâu mọt, đem Nha thống đan nhét vào trong lỗ, không có lỗ thì xát vùng chân răng cũng được, sau khi đặt thuốc đau lên, dùng đũa ép một ép lên lên răng đau, dứt ngay đau.
* Hiệu quả lâm sàng : Chữa 37 ca, trừ 2 ca vô hiệu ra, còn lại đều thu được hiệu quả lập tức dứt đau hoặc giảm nhẹ, tỷ lệ dứt đau đạt 94 %.
* Xử phương của : Quảng Tây Quế Tây Trang tộc tự trị châu nhân dân y viện - Trần Bồi Sán.
* Lời bàn :
Phương này dùng Phòng phong, Khương hoạt, Tế tân, Tất bạt khử phong dứt đau; độ ngũ lấy Hùng hoàng giải độc dứt đau; cho vào Băng phiến là thanh nhiệt dứt đau hợp dùng mọi thứ thuốc đó nói chung lên là công khử phong tán hỏa, giải độc, dứt đau. ( Thích Thanh Quyền )

Tác giả bài viết: Lê Văn Sửu

Nguồn tin: Chi hội Đông Y HC

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 
.

Thông tin tại Website chỉ mang tính chất tham khảo, việc dùng thuốc và chữa bệnh phải tuân theo sự hướng dẫn của bác sĩ