Trang nhất » Chi hội HC » Tài liệu tra cứu » Trị liệu bằng Đông Y

CHI HỘI ĐÔNG Y HC

Tin tổng hợp

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 6


Hôm nayHôm nay : 1084

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 13582

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 4067225

ĐẶC KHU-CƠ TRỊ LIỆU

Thư viện HC

Chữa chứng thiên đầu thống

Thứ năm - 11/07/2019 05:03
     Một lần, trên đường đi công tác, tôi qua khu rừng, nơi bộ đội huyện Đơn Dương đóng quân.  Khi vừa tới bìa rừng, tôi chợt thấy chú lính trẻ từ trên sườn đồi chạy xuống, chú đón giao liên và nói để giao liên đưa tôi lên đồi.  Tới chỗ, mà ngay từ khi còn cách xa tôi đã nhìn thấy, có chừng dăm bảy người đứng quanh một cái võng buộc giữa hai gốc cây, trên võng là một người nằm.
     Tôi đến nơi, mấy người đứng quanh võng tản ra, họ nhường chỗ cho tôi.  Chú chỉ huy vẫn đứng lại đó, với vẻ rất hiểu biết, chú nói với tôi : “Đồng chí này đau một bên đầu, nhức vào mắt, nước mắt chảy ra đầm đìa, tôi nghi là bệnh thiên đầu thống.   Nếu là ở ngoài Bắc (chú là sĩ quan nhưng còn rất trẻ, bổ sung về Đơn Dương ngay từ đầu xuân Mậu Thân), chúng tôi sẽ phải đưa đi bệnh viện mắt ngay, hy vọng còn cứu được con mắt. Bây giờ ở đây chẳng biết làm cách nào khác, ngoài việc đứng quanh nhau, an ủi nhau cho ấm lòng.”
     Tôi xem kỹ lại, cũng thấy đúng như lời chú chỉ huy vừa nói.  Tôi đứng nguyên, ba lô và khẩu súng ca bin còn đeo trên vai, tay mở bao nhỏ ở dây lưng bên hông, lấy ra hộp kim.  Tôi đưa hộp kim nhờ chú chỉ huy đỡ trên tay.  Tiếp theo, tôi mở hộp, lấy kim ra sát trùng và châm vào các huyệt : Đầu duy, Khúc mấn, Chi câu, bên phía mắt đau.  Châm xong, tôi lần lượt vê từng kim theo tả pháp, đúng thứ tự, hết vòng thì trở lại.
     Vê kim được chừng ba vòng lượt thì người bệnh nói rằng, mắt đã đỡ nhức.  Tới đây, tôi nói với chú chỉ huy ra lệnh cho mọi người về vị trí của mình, còn tôi và chú ở lại.  Thỉnh thoảng tôi lại vê kim một vòng lượt.  Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, người bệnh hết đau đớn.  Tôi rút kim xong, người bệnh đã nhỏm dậy, nhưng vẫn là ngồi trên võng, giọng xúc động, nói lời cảm ơn tôi.

     Đã đến lúc giao liên nhắc tôi cần phải đi tiếp, tôi mới sực nhớ ra, từ lúc tôi đến đây tới giờ, không thấy ai là quân y cả.  Tôi quay sang chú chi huy nói ý định sẽ bàn giao cho quân y, yêu cầu ngày hôm sau vẫn tiếp tục châm củng cố cho ổn định hẳn.  Chú chỉ huy nói với tôi lý do quân y sỹ vắng mặt, và chú nhận mấy cây kim từ tôi trao cho, hứa sẽ chỉ lại quân y đúng vị trí huyệt mà tôi đã châm. Chú còn cẩn thận ghi tên,vẽ vị trí mấy huyệt đó vào cuốn sổ tay của mình.

      Về sau này, anh chị em học viên của tôi, gặp người bệnh mang chứng đó, họ đều có thể châm cắt cơn rất nhanh, và chữa tiếp theo nữa thì bệnh đều được ổn định cả.   Trong số đó, có anh còn phát hiện từ kinh nghiệm trong đan gian rằng, bệnh nhân sau khi ổn định, cần phải kiêng ăn thịt chim bồ câu một thời gian dài.  Bởi vì, đã có bệnh nhân được anh chữa khỏi, nhưng khi ăn thịt chim bồ câu, bệnh liền phát trở lại. Anh phải chữa lần nữa, và không quên nhắc người bệnh cần chú ý giữ gìn. 
     Trong khi truyền thụ phương này cho học viên, tôi cũng phân tích phương huyệt cụ thể là :  Theo du huyệt học, huyệt Đầu duy, trên kinh vị, hội của túc dương minh và túc thiếu dương. Vị trí ở góc trán, phía bên đầu, gần nơi kinh đảm đi.  Trong tác dụng chủ trị, có ghi : “...đau bên đầu ;...đầu đau như phá, mắt đau như lòi ra ; ...  Huyệt Khúc mấn (Khúc phát ), chủ trị :...hai góc não đau, dẫn vào làm chột mắt..  Đó đều là chứng điển hình của bệnh thiên đầu thống.   Huyệt Chi câu, trên kinh tam tiêu, loại huyệt ngũ du là kinh, hành hoả. Dường kinh tam tiêu khi đi lên mé bên đầu, luôn đi gần kề đường đi của kinh đảm. Hai kinh đều là Thiếu dương ( thủ thiếu dương và túc thiếu dương).  Bệnh Thiên đầu thống là bệnh do đảm hoả gây ra. trong kinh đảm đã có huyệt Khúc mấn, vừa có tác dụng vào kinh gốc sở thuộc, vừa có tác dụng tại chỗ và lân cận.  Huyệt Đầu duy, tuy trên kinh vị, nhưng là hội của hai kinh vị và đảm, lại ở mé bên đầu. Nó vừa có tác dung liên thông với kinh đảm, lại có tác dụng tại chỗ và lân cận.  Huyệt Chi câu trên kinh tam tiêu, cũng có nhiều tác dụng sang phạm vj bao quát của kinh đảm, như : “Đau sườn ngực;...tai điếc;...sườn nách cấp đau ;...” Huyệt Chi câu cùng với hai huyệt trên, tăng thêm sức mạnh trị bệnh của đảm cũng là nhờ ở tính chất đồng khí thiếu dương của hai kinh đảm và tam tiêu.   Nhờ những phân tích này, học viên của tôi khi về cơ sở, rất tự tin khi tiến hành chẩn trị, và cũng thu được nhiều thành công.


Tác giả bài viết: Lê Văn Sửu

Nguồn tin: Những kỷ niệm chữa bệnh bằng đông y, NXBYH,2009

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 
.

Thông tin tại Website chỉ mang tính chất tham khảo, việc dùng thuốc và chữa bệnh phải tuân theo sự hướng dẫn của bác sĩ